Người ta cũng sẽ nhận thấy trong đám đông những sự tưởng tượng trái ngược nhau tiếp nối xuất hiện. Đối tượng của niềm tin tôn giáo trước đó của nó đã hoàn toàn trở thành một đối tượng khác, thế nhưng liệu ta có thể quả quyết rằng, tình cảm tôn giáo của nó cũng đã thay đổi? Vô số các trường hợp đã chỉ ra rằng người ta phải rất cảnh giác với năng lực làm chứng của đám đông.
Lý trí chỉ cho thấy sự không mạch lạc của những hình ảnh đó, nhưng đám đông không để ý đến điều này và đã trộn thêm gia giảm có được từ những tưởng tượng méo mó của họ vào trong sự kiện. Và như thế trong các cuộc giằng co, nếu những người tham gia ngay từ đầu không có những quan điểm được thiết lập một cách chắc chắn thì người lãnh đạo sẽ là người làm chủ tình hình. Do bởi những kích thích tác động vào đám đông thay đổi liên tục và họ luôn tuân theo chúng, vì thế bản thân đám đông dĩ nhiên cũng sẽ rất dễ biến đổi.
Chúng chỉ còn là tiếng vọng trống rỗng, và ích lợi duy nhất là làm cho tất cả những ai sử dụng nó đỡ phải mất công suy nghĩ. Nhưng những kẻ cải đạo mới này đã quên mất một điều rằng, ơn trên nếu thực sự phù hộ họ, sự tác động của nó vào tâm hồn họ không giống như vào tâm hồn những kẻ hầu như chẳng quan tâm gì đến thánh thần. Sự truyền nhiễm không đòi hỏi bắt buộc các cá nhân phải có mặt tại cùng một địa điểm, nó cũng có thể xảy ra từ xa dưới ảnh hưởng của các sự kiện nhất định, chúng làm cho mọi thần trí đều hướng về một phía và tạo nên những tính chất riêng biệt của một đám đông, đặc biệt là, nếu như chúng được chuẩn bị từ trước đó bởi những yếu tố gián tiếp như đã từng nói đến ở phần trên.
Mọi lời kết tội chỉ là những câu chuyện vô ích. Chúng là bộ khung thực sự của nền văn hóa. Cho đến nay rõ ràng rằng nhiệm vụ của đám đông nằm ở trong cái công cuộc hủy diệt vĩ đại này đối với những nền văn hóa cũ.
Một đám đông người Pháp coi trọng trước hết là sự bình đẳng, còn đám đông người Anh thì lại coi trọng trước hết là sự tự do. Trong những quy luật lớn thường xuyên chỉ đạo sự tiến triển chung của mỗi nền văn minh, “những quy luật phổ biến nhất, khó quy giản nhất được sinh ra từ cấu tạo tinh thần của những chủng tộc” (Quy luật tâm lý về sự tiến hoá của các dân tộc). Dưới thời Bourbon, Napoleon là một nhân vật bình dị, dễ gần và cởi mở, là người bạn của dân nghèo, những người như một nhà thơ đã nói, sẽ mãi mãi giữ những kỷ niệm về ông ta trong những túp lều tồi tàn của mình.
Người ta đã từng biết có nghị viên nhờ có uy lực nên đã đạt đến ảnh hưởng cực lớn, nhưng chỉ do vì mắc phải vấn đề tài chính mà đã chịu để mất đi cái ảnh hưởng có được từ bao năm nay. Thứ nhất, các giáo lý cũ đã ngày càng bị mất đi ảnh hưởng của chúng và không còn có thể định hướng được cho ý niệm như trước đây. Cho dù đám đông rất thèm muốn nhiều thứ, tuy nhiên họ cũng không muốn giữ chúng thật lâu.
Người ta không được phép đòi hỏi ở nó những gì nhiều hơn là những sự gợi ý. Những cái đầu vĩ đại như Galilei, Newton, Leibnitz, không hề có một giây phút nào nghĩ lại, rằng cần phải nghi ngờ về sự thật của những loại huyền thoại như vậy. Thí dụ trên lột tả rõ ràng cái trí tuệ của đám đông.
Các ý kiến, tư tưởng, giáo lý truyền bá vào nó được nhanh chóng tiếp nhận một cách hoặc nguyên kiện không cần xem xét, hoặc bị nó vứt bỏ tất cả, cũng như được coi là tuyệt đối đúng hoặc tuyệt đối sai. Về chi tiết có thể tìm hiểu thêm trong các bài viết mới đây của tôi. Chính vì thế những người quá nổi trội trong thời của họ hầu như không có ảnh hưởng (hay có?) rất ít.
Tầng lớp đặc quyền đuợc coi là mức độ tổ chức cao nhất mà đám đông có thể tạo ra. Nếu chúng ta chú ý thêm yếu tố chủng tộc, chúng ta sẽ thấy, rằng trong cùng một thời gian ở các dân tộc có cùng văn hóa, nhưng khác chủng tộc, những từ giống nhau thường tương ứng với những hình dung hoàn toàn khác nhau. Nó có sự cấu thành hoàn toàn khác so với các uy lực giả tạo hoặc thu lượm.
Lấy từng người ra một thì các nghị viên là những người thông thái với những thói quen dễ chịu. Từ những điều trên đây có thể kết luận rằng, người ta không nên tìm phương tiện để làm chuyển động tâm hồn đám đông một cách lâu dài ở trong các thể chế. Tâm lý đám đông cho thấy, sự tác động của thiết chế và luật pháp vào bản chất tự nhiên của đám đông đặc biệt yếu ớt như thế nào, và nó chỉ ra rằng đám đông không có khả năng có những quan điểm riêng ra sao, ngoại trừ những điều được đưa vào từ bên ngoài.