Gõ cửa phàn nàn gã nhà sát bên ổn ào, sống bẩn nào ngờ chọc giận hắn ta
Những người tiểu tư sản, những thợ thủ công có học đều đã nghi ngờ và không tin tưởng. Sự đồng nhất của môi trường, sự lai giống thường xuyên, nhu cầu của một đời sống tập thể đã dần dần phát huy tác động. Biết bao nhiêu đám đông đã tự để bị đẩy vào chốn hy sinh một cách oanh liệt vì những niềm tin và lý tưởng mà họ chẳng hiểu một chút gì về nó! Đám đông khi lâm chiến, thường họ chiến đấu theo tiếng kèn xung trận, chứ không phải vì một phần thưởng nào.
Cũng quá thừa khi lưu ý rằng, sự thiếu khả năng lập luận của đám đông đã tước đi của họ mọi năng lực phê phán, có nghĩa là khả năng để phân biệt được giữa đúng và sai, khả năng đưa ra một phán xét xác đáng. Ở đó sự giảng dạy không dựa trên sách vở mà dựa trên chính sự vật. trút xuống đầu hội đoàn hàng loạt những tính từ thối tha và ghê tởm như: đáng sợ, đểu giả, mua chuộc, đầy hận thù và ông tuyên bố sẽ tiêu diệt họ v.
Những kẻ vô chính phủ lập tức chiếm giữ khán đài, đoạt lấy bục nói. Những sự bóp méo một sự kiện bởi đám đông mà chính nó là người chứng kiến có vẻ như rất nhiều và với các dạng khác nhau, bởi những con người trong đám đông đó họ có những tính khí rất khác nhau. Mặt khác, đôi lúc cả một dân tộc, không thấy có dấu hiệu rõ ràng về sự liên kết dưới sức ép của các tác động nào đó, cũng trở thành một đám đông.
Ý chí bền bỉ mà họ có, là một tính cách vô cùng hiếm và vô cùng mạnh mẽ, mọi cái đều phải thần phục nó. Một hiện tượng quen biết là những thầy thuốc trị bệnh tâm thần rất hay bị bệnh mất trí. Mỗi một đảng có người lãnh đạo riêng, tác động của nó đôi lúc có ảnh hưởng mạnh như nhau.
Họ lúc đó chỉ còn là những cái bóng không có sức đề kháng, chỉ còn là những cỗ máy tự động, không ý chí, không phản kháng và không sức lực. Và dựa vào mức độ thường xuyên của các hành động tội ác như vậy họ đã đánh giá tính cách đạo đức của đám đông rất thấp. Các ý tưởng cần phải có nhiều thời gian để có thể bám rễ vào đám đông, và nó cũng cần không ít hơn thời gian để có thể biến đi khỏi đó.
Những người xã hội chủ nghĩa kháng cự kịch liệt, người ta xông vào nhau, chửi bới nhau, đổ cho nhau là gián điệp, là kẻ đút lót và những gì tương tự. Nhiều triết gia ưu tú, đặc biệt trong đó có Herbert Spencer, đã có thể chứng minh một cách dễ dàng, rằng việc giảng dạy không làm cho con người trở nên đạo đức hơn cũng chẳng làm cho nó hạnh phúc hơn, việc giảng dạy không làm thay đổi bản năng cũng như ham muốn của con người, và nếu không được tiến hành tốt nó thậm chí còn gây hại nhiều hơn là làm lợi. Sự cần thiết rằng ta phải thay đổi cách thức thể hiện một cách nhanh chóng tùy theo kết quả thu được, là lời tuyên án cho sự thất bại ngay từ đầu của những bài diễn văn chuẩn bị trước và được học thuộc lòng.
Trong khi anh ta, như những người bị thôi miên, bị mất đi một số khả năng nào đó thì những người khác trong đám đông lại bị dồn đến một trạng thái cực kỳ kích động. Tư tưởng ấy được thể hiện rõ rệt nhất trong tác phẩm Tâm lý học đám đông. Quyền lợi cá nhân trong đám đông hiếm có khi là một động lực mạnh mẽ, trong khi đó đối với một người độc lập, nó là sự kích thích gần như là duy nhất.
Bỗng nhiên quyền lực mù quáng của đám đông trong giây lát đã trở thành cái triết lý duy nhất của lịch sử. Phần đông các con người, đặc biệt là đám đông dân chúng, bên ngoài lĩnh vực nghề nghiệp của họ, họ hoàn toàn không biết một chút gì cho rõ ràng và đúng đắn. Ngay cả khi chỉ để thỏa mãn sự tò mò của chúng ta, việc quyết định nghiên cứu tâm lý học đám đông cũng rất đáng nên làm, bởi rất chi là thú vị khi khám phá được những động lực thúc đẩy hành động con người, giống như khi khám phá ra những đặc tính của khoáng chất hoặc của cây cối.
Những ngọn núi đã phản kháng và cái tai họa tiếp nối từ đó đã phá nát niềm vinh quang sáng tỏa đã một thời bao quanh người anh hùng. Nếu nói rằng lòng vị tha, sự hy sinh, sự dâng hiến một cách vô điều kiện cho một lý tưởng, hão huyền hoặc thực tế, là những nhân cách đạo đức, thì ta có thể nói rằng, đám đông thường có một nhân cách như vậy ở mức độ rất cao mà ngay cả những triết gia thông thái nhất cũng hiếm khi đạt đến được. Trong tất cả các lĩnh vực nghệ thuật đều có thể dễ dàng chỉ ra những ví dụ kiểu như vậy.
Tuy nhiên ở đây chúng ta chỉ nghiên cứu về ảnh hưởng của thời gian đến các quan điểm của đám đông. Để ít nhất phần nào có thể xác định được những nguyên nhân này, người ta trước hết phải nhắc lại những kết luận của tâm lý học hiện đại, rằng không chỉ trong đời sống sinh vật, mà ngay trong các quá trình nhận thức, những hiện tượng vô thức cũng đóng một vai trò quyết định. Nếu quan sát một ngôn ngữ nào đó, ta sẽ thấy, rằng các ngôn từ hợp nên ngôn ngữ đó biến đổi tương đối chậm theo thời gian; nhưng những hình ảnh nó gợi lên hoặc những ý nghĩa người ta đặt đằng sau nó lại biến đổi không ngừng.